Thực đơn
Tao_đàn_Chiêu_Anh_Các Giới thiệuTừ thời Mạc Cửu, sách Đại Nam liệt truyện Tiền biên đã ghi nhận:
(Mạc) Cửu về Trấn (Hà Tiên) dựng thành quách, đặt liêu tá, làm nhiều nhà khách để đón tiếp hiền tài.[2]Kế thừa giềng mối của cha, Mạc Thiên Tứ cũng dựng gác Chiêu Anh để thờ Tiên thánh và làm nơi đón tiếp hiền tài.Sách "Hà Tiên trấn, Hiệp trấn Mạc thị gia phả" (gọi tắt Mạc thị gia phả) do Vũ Thế Dinh.[3] biên soạn năm 1818, chép:
Ông (Mạc Thiên Tứ) phú tánh trung lương, nhân từ nghĩa dõng, toàn vẹn tài đức, lại tinh thông sách vở và văn thơ của Bách gia chư tử… Ông có dựng Chiêu Anh Các để thờ Tiên Thánh, và dùng lễ vật hậu hĩ để đón mời người tài giỏi. Từ bên nhà Thanh, cả các bậc tuấn tú các nước khác nghe tiếng ông đều tụ hội đến ngày một đông.[4]Trong số danh sĩ "nghe tiếng mà đến", Mạc Thiên Tứ kể, "có thầy Trần Hoài Thủy từ Việt Đông vượt biển đến đây. Ta đãi làm thượng tân. Mỗi khi hoa sớm trăng đêm, ngâm vịnh chẳng thôi. Nhân, đem "Hà Tiên thập cảnh" trình cho tri kỷ. Thầy Trần dựng cơ Tao đàn, mở hội phong nhã...[5]Đó là năm Bính Thìn (1736).
Thi sĩ Đông Hồ, người có nhiều năm nghiên cứu và gắn bó với Hà Tiên đã cho biết:
Đời Hồng Đức có lập tao đàn là một tổ chức văn học rất hoàn bị. Cách tổ chức Chiêu Anh Các cũng gần y như vậy. Nhân vật tao đàn Hồng Đức có Nhị thập bát tú, Chiêu Anh các có số người nhiều hơn. Có sách chép 32, nhưng có sách chép 36. Số 36 vị này gọi là tam thập lục kiệt, tức 36 vị kiệt sĩ, mà trong số đó có thập bát anh là 18 vị anh hoa xuất chúng, nên có câu thơ rằng:Tài hoa lâm lập trú Phương thànhNam Bắc hàm vân thập bát anh.Dịch nghĩa:Tài hoa ở Phương thành (Hà Tiên) đông như rừngViệt Nam và Trung Quốc đều xưng tụng 18 vị anh tài.Trong số đông đảo đó, có người ở tại Hà Tiên; có người từ Thuận Quảng (tức Thuận Hóa và Quảng Nam), Gia Định; có những người ở tận Trung Hoa, phần nhiều là người hai tỉnh Quảng Đông, Phước Kiến; vì hâm mộ thanh danh Chiêu Anh Các, cảm mến phong lưu tài vận đất Hà Tiên mà tìm đến.[6]Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn viết rằng Chiêu Anh các có 32 vị, ngoài Mạc Thiên Tứ chủ xướng nên Hà Tiên thập vịnh, còn có
31 vị sau viết 120 bài thơ họa lại Hà Tiên thập vịnh [7].
Hiện chỉ mới biết được:
Ngoài ra, theo Trịnh Hoài Đức, trong bài Tân tự được viết năm Minh Mạng thứ hai (1921) in trong tập Minh bột di ngư, thì Chiêu Anh Các còn có các bộ sách: Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu Thị Trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ và Thi thảo cách ngôn vị tập.
Theo Mạc thị gia phả, thì năm 1736, Mạc Thiên Tích "dựng gác Chiêu Anh để thờ Tiên thánh (thờ Khổng Tử) và làm nơi đón tiếp hiền tài. Cuối bài tựa đề cho tập Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tứ cho biết "Thượng tuần của tháng cuối mùa hạ, năm Đinh Tỵ (1737)" ông đã "tự tay viết bài tựa ở Thụ Đức Hiên" (thư phòng ở đền thờ Thánh Đức, tức Khổng Tử).
Dù vẫn còn có người tỏ ý nghi ngờ, có hay không ngôi nhà riêng dành cho Chiêu Anh Các[11], nhưng theo nghiên cứu của Trương Minh Đạt (người Hà Tiên), nhờ 9 bài thơ trong tập Thụ Đức Hên tứ cảnh còn sót lại (chép trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, nhất là bài thơ của ông Trần Diệu Liên, người Trung Quốc, đã mô tả khá rõ vị trí của tòa nhà); nhờ những phế tích[12] vẫn còn ở chùa Phù Dung, ông Đạt đã khẳng định vị trí "Thụ Đức Hiên tại Đền Khổng Tử xưa, trải qua bao biến cố, nay chính là nơi tọa lạc của chùa Phù Dung".[13]
Như ý nghĩa của tên gọi, đây là một tổ chức có mục đích chiêu tập và mời gọi anh tài. Những việc làm của tổ chức này đã được sử thần nhà Thanh chép trong sách Thanh văn hiến thông khảo như sau:
Cảng khẩu quốc (ý nói Hà Tiên), ở về biển phía Tây Nam...Vua (nước đó) họ Mạc[14], vua hiện thời là Thiên Tích duyên cách thế thứ chưa khảo biết được. Phong tục ở đó, trọng văn học, hiếu thi thư. Trong nước có dựng miếu Khổng Tử, vua và người trong nước đều kính thờ. Có nhà nghĩa học, tuyển chọn con em tuấn tú, cùng là học trò nghèo khó, đều đem về truyền dạy. Những người Hán đến ở trong nước mà thông hiểu kinh sử thì đón vào làm thầy dạy. Cho nên con em đều hay giỏi cả...Bàn về mục đích này, GS. Lê Đình Kỵ đã viết:
Hà Tiên là vùng đất mới tạo lập, do những người giàu nghị lực, có chí tiến thủ, không bằng lòng với thói ỷ lại, ngồi không ăm bám, tin tưởng ở khả năng và sức sáng tạo của quần chúng. Bản thân công việc khai khẩn và bảo vệ lãnh thổ đòi hỏi những người lãnh đạo phải biết dựa vào dân. Họ Mạc đã chăm lo chiêu hiền đãi sĩ, đào tạo nhân tài ngay từ hàng ngũ của những người không thuộc giai cấp thống trị, có chính sách và biện pháp dân chủ nhất định nhằm khuyến khích việc khai khẩn làm ăn, ổn định đời sống cho cư dân của mình và lôi kéo nhân dân các nơi khác về mình[15]Trích thêm nhận xét của:
Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784):
Năm Vĩnh Hựu, Bính Thìn (1736) Mạc Thiên Tích (tức Mạc Thiên Tứ) kế tập tước cha (Mạc Cửu) chiêu mộ văn sĩ, yêu chuộng từ chương, phong lưu tài vận, nổi tiếng một cõi...Không thể bảo rằng ở hải ngoại xa xôi không có văn chương vậy. [16]Danh sĩ Trịnh Hoài Đức (1765-1825):
...Các vị nối bước nhau mà đến, mở Chiêu Anh Các gom góp thư tịch, thường ngày cùng các chư Nho thảo luận, có đề Hà Tiên thập cảnh, người thù họa rất đông, văn chương bắt đầu rực rỡ ở chỗ góc biển chân trời..." [17]Thi sĩ Đông Hồ:
Lạ lùng thay, cách nay hơn hai thế kỷ, ở góc Hà Tiên diệu viễn, đã có một tướng quân thi sĩ con cháu Minh Hương, làm được những câu thơ tiếng Việt lọc lõi trau chuốt đến vậy.[18]GS. Nguyễn Huệ Chi:
Thơ văn Chiêu Anh Các hầu hết là thơ đề vịnh thiên nhiên. Tính chất ước lệ, phong cách khoa trương, sự thị vị hóa cảnh vật và thông qua cảnh vật mà phơi bày tâm trạng thỏa mãn với hiện thực, của những người may mắn cai quản một vùng đất nước...Tuy vẫn còn những sáng tác mang tính chất sách vở, khuôn sáo, nhưng chúng vẫn thể hiện được những tình cảm lạc quan yêu đời của những tâm hồn gắn bó với cuộc sống, niềm tự hào về đời sống hòa bình, no đủ và tinh thần trách cùng ý chí muốn gìn giữ nơi biên cương sao cho yên ổn, giàu mạnh. Sắc thái tích cực đó đã làm cho nhiều bài thơ mang được vẻ đẹp chân thực, giản dị, đạt đến cái nhã đạm của văn chương cổ điển.[19].GS. Lê Đình Kỵ, trong một bài viết, đã nêu lên hai ý:
Nhà thơ Ngô Minh ghi nhận công lao:
Mạc Thiên Tích vịnh bằng thơ chữ Hán rồi, lại làm thêm Hà Tiên Quốc âm thập cảnh vịnh bằng chữ quốc ngữ song thất lục bát. Chứng tỏ thi sĩ này rất thạo tiếng Việt của mẹ mình. Đọc thơ thấy Mạc Thiên Tích là một ngòi bút lão luyện, tung tẩy chữ nghĩa ngang dọc. Sau đó, tập thơ Hà Tiên thập vịnh gửi đi khắp nơi và được 66 thi sĩ khắp nước và cả Trung Quốc họa vần gửi về Hà Tiên được in khắc.Tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích chủ xướng đã xuất bản tới 7 tập sách chữ Hán và một tập thơ chữ Nôm 10 bài họa 10 cảnh Hà Tiên xen những khúc ngâm song thất lục bát dài 422 câu rất điêu luyện. Hoạt động văn chương như thế ngang tầm với một đô thị lớn hiện nay.Thực đơn
Tao_đàn_Chiêu_Anh_Các Giới thiệuLiên quan
Tao đàn Chiêu Anh Các Tao Đàn nhị thập bát tú Tao Đàn (định hướng) Tam Điệp Tao và mày Trao đổi chất Tam Đảo Tam Đảo (huyện) Tam độc Tào Động tôngTài liệu tham khảo
WikiPedia: Tao_đàn_Chiêu_Anh_Các http://www.nuiansongtra.net/index.php?c=article&p=... http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/vanhoc_ta... http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?Article... http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/butviet/2006/02/5...